Sau khi Nghị định số 51/2010/NĐ-CP được ban hành thì phương thức phát hành, quản lí hóa đơn của doanh nghiệp đã được chuyển đổi từ cơ chế “mua hóa đơn của cơ quan Thuế” sang cơ chế “doanh nghiệp tự đặt in, tự in hóa đơn điện tử” để sử dụng. Nghị định này đã giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc sử dụng và quản lí hóa đơn...
Bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tích Hội Tư vấn Thuế - Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế
Mặc dù tỉ lệ sử dụng Hóa đơn điện tử tăng dần qua các năm nhưng xu hướng tăng trưởng còn chậm. Điều này cho thấy việc sử dụng Hóa đơn điện tử có nhiều điểm hạn chế do các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, hóa đơn trong nhận thức của người dân vẫn là chứng từ giấy (hóa đơn đỏ). Hóa đơn điện tử chưa được nhiều người biết đến và sử dụng nên khi mới áp dụng, các doanh nghiệp thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải thích cho khách hàng hiểu thế nào là Hóa đơn điện tử và tính pháp lí của hóa đơn điện tử.
- Thứ hai, các qui định về Hóa đơn điện tử chưa thực sự đầy đủ để có thể triển khai rộng rãi, nhất là trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2015, hoạt động thương mại điện tử chưa phát triển mạnh mẽ.
Trong khi đó, Nghị định số 51/2010/NĐ-CP cho phép các doanh nghiệp được sử dụng đồng thời nhiều thức hóa đơn khác (hóa đơn đặt in, hóa đơn tự in) nên chưa đủ cơ sở pháp lí bắt buộc doanh nghiệp sử dụng Hóa đơn điện tử.
- Thứ ba, để sử dụng Hóa đơn điện tử, doanh nghiệp phải có điều kiện nhất định về hạ tầng công nghệ thông tin, nhân viên phải có trình độ quản lí, lưu trữ dữ liệu.
Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam còn hạn chế về nguồn lực tài chính, nhiều doanh nghiệp còn thuê dịch vụ kế toán nên sẽ gặp nhiều khó khăn về công tác kế toán khi qui định bắt buộc sử dụng Hóa đơn điện tử được thực thi.
- Thứ tư, số lượng các tổ chức Cung cấp dịch vụ và phần mềm Hóa đơn điện tử còn hạn chế. Ngoài ra, chi phí khởi tạo ban đầu cao hơn so với việc doanh nghiệp tự in hóa đơn, ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp.